Total Pageviews

Monday, August 15, 2011

Cù Huy Hà Vũ, người không tầm thường

Đại Nghĩa (danlambao) sưu tầm - Cù Huy Hà Vũ một con người mà gần đây chế độ cộng sản làm cho ông trở thành một con người theo giáo sư Ngô Bảo Châu là “không tầm thường”. Chính chế độ này đã đánh bóng tô son cho Cù Huy Hà Vũ bằng những ngón đòn thù bẫn thỉu “thấp tầm” và bản án 7 năm tù và 3 năm quản chế, Cù Huy Hà Vũ lớn vì Nguyễn Tấn Dũng quỳ xuống (ý thơ của Tố Hữu). Nhưng không biết rồi một ngày “Hoa Lài” nào đây khi được tháo củi xổ lồng, con người “không tầm thường” ấy sẽ dọc ngang, ngang dọc, đem tài trai phụng sự đất nước cho thoả chí tang bồng.

A - Đối nội:

1. Quốc hiệu: VIỆT-NAM

Tất cả hoài bảo của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã nằm gọn trong cái quyết định muốn đặt tên nước là Việt nam với đầy đủ lịch sử vinh quang qua bài học tình đoàn kết chống ngoại xâm mà tổ tiên đã để lại. Ông với quan niệm dứt khoát rằng Việt Nam là Việt Nam trường tồn, không mang chủ nghĩa nhất thời nào gán ghép vào đó được.

“Chính trên quan điểm“Việt Nam là Tổ quốc của mọi người Việt Nam” mà ngày 30-8-2010 tôi đã gửi Quốc hội Việt Nam kiến nghị lấy“Việt Nam” là Quốc hiệu để thực hiện hòa giải dân tộc nhằm đoàn kết tất cả mọi người Việt Nam trong nước và ngoài nước, bất luận chính kiến trong nổ lực chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngang tầm thời đại.“Cha ông ta trước đây lấy Việt Nam làm quốc hiệu, ngoài ra không thêm những từ gì nữa. Thế thì tại sao bây giờ chúng ta không thể bắt chước cha ông mà lấy Việt Nam làm quốc hiệu?” (RFA online ngày 31-8-2010)

2. Phản bác Chủ nghĩa xã hội:

Nhận định về Xã hội Chủ nghĩa, tiến sĩ Hà Vũ cho thấy rằng ông không đồng tình với cái chế độ do những người cộng sản hậu Hồ Chí Minh áp đặt cái chủ nghĩa ấy lên đầu nhân dân Việt nam.

“Ngay tôi với tư cách là một người sống trong chính thể Cộng sản, tôi cũng căm phẫn, bởi vì cái việc dùng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để thay thế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đó là sự phản bội, đó là một sự đảo chính của những người cầm quyền sau năm 1975 đối với ngay chính thể của Hồ Chí Minh”. (RFA online ngày 31-8-2010)

Theo tiến sĩ Hà Vũ thì cái xã hội chủ nghĩa“chưa bao giờ là một hiện thực” ở Việt nam vì nó chỉ là một chủ nghĩa“mù mờ, u u minh minh” ngay cả những nhà trí thức cách mạng cũng không hình dung ra được nó là cái hình thù gì, nó đã bị xóa đi trên thực tế và chỉ còn trên danh nghĩa lừa dối mà thôi. Có lần trả lời phỏng vấn của đài VOA, Hà Vũ nói:

“Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã phá sản tuyệt đối vào năm 1985 khi chính sách gía-lương-tiền của chính phủ Việt nam gây lạm phát tới 900%, dẫn đến kinh tế tư nhân hay kinh tế thị trường được đảng CSVN phục hồi tại Đại hội 6 của đảng vào năm sau, 1986.
“Nhưng phải đến năm 1990 thì chủ nghĩa tư bản mới được chính danh bằng Luật Công ty và doanh nghiệp tư nhân. Và Đại hội 10 của đảng CSVN diễn ra cách đây 4 năm đã hoàn tất công cuộc phá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng cách chính thức cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân”. (VOA online ngày 30-4-2010)

3. Xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992, thiết lập thể chế đa đảng đa nguyên:

Với thái độ dứt khoát, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong một lần trả lời phỏng vấn của Thomas trên diễn đàn Dân Luận ông đã thẳng thắn phát biểu khẳng định lời báo tử cho đảng CS độc tài rằng:

“Tôi khẳng định đa đảng là truyền thống của Việt Nam từ trước cho đến khi chủ tịch Hồ Chí Minh chết và thậm chí đến 1988…


“Tuy nhiên tôi vẫn lên án sự độc tài của đảng CSVN. Nên mục tiêu đấu tranh của tôi, cái đầu tiên là buộc nhà cầm quyền VN phải thực hiện đa đảng…


“Nếu đảng cộng sản mà không bỏ Điều 4 hiến pháp thì việc đó đồng nghĩa với cái chết. Cái chết đó còn không bao lâu nữa đâu, cái chết đó trước hết với Ban lãnh đạo đảng cộng sản. Đảng cộng sản đừng có nghĩ rằng đã vơ vét được nhiều rồi đến khi chế độ cộng sản sụp đổ thì họ trở thành những ôngchủ mới”. (Dân Luận online ngày 7-11-2010)

Ủng hộ quan điểm chính đáng của tiến sĩ Hà Vũ, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang cũng đồng thanh:

“Đối với đảng tôi cho rằng“nên” xóa bỏ, vì Điều 4 làm mất thanh danh của đảng. Một đảng tự xưng là“đội tiên phong đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân”, là “ngôi sao sáng nhất trong muôn vì sao” mà phải dựa vào sự cưỡng bức một điều luật và nghĩ rằng buông nó ra tức là tự sát thì còn gì đáng xấu hổ cho bằng”. (RFI online ngày 13-9-2010)

Luật sư Trần Lâm, nguyên thẩm phán tòa án tối cao cũng nhiệt liệt tán đồng:

“Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm không thể đừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối thoát, còn con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường, một mình ta một hướng quả thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù mờ, ngay cả trong nội bộ cũng không thông suốt. Thiết lập thể chế đa đảng là việc làm sáng suốt, một lựa chọn đúng đắn”. (Đối Thoại online ngày 10-6-2010)

4. Hòa giải hòa hợp, đoàn kết dân tộc:

Với một tình yêu nước nồng nàn, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã trình lên Quốc hội xin đại xá cho tất cả cán bộ, viên chức và sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa để cùng nhau phát triễn và bảo vệ đất nước. Trả lời phỏng vấn của đài RFA ông nói:

“Kiến nghị này, cụ thể tôi đề nghị Quốc hội đại xá tức là trả tự do không điều kiện, nó khác với đặc xá, đặc xá là trả tự do có điều kiện, ví dụ những người tù phải thấy mình cải tạo tốt này, theo quan điểm này theo quan điểm kia của nhà cầm quyền, nhưng đại xá là bình lập tức trên tinh thần dân tộc, đại xá trên tinh thần anh em, đồng bào mà trả tự do không điều kiện”. (RFA online ngày 31-8-2010)

Cùng một nhận định và chủ trương HGHH, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, người cũng có lòng và đầy nhiệt huyết với dân tộc, với tinh thần hòa giải ông cũng đã nhiều lần phát biểu qua những bài viết dài:

“Hòa giải Hòa hợp…đó là niềm thôi thúc, là sự nghiệp của cả dân tộc”. Khoan hãy bàn đây là yêu cầu bức thiết và mọi người Việt Nam dù là đang ở trong hay ngoài nước, dù từng ở chiến tuyến nào đều phải dốc tâm thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng cao cả này. Có vậy mới mong xây dựng nước Việt Nam mạnh giàu, dân tộc an lành, hạnh phúc”. (Thông Luận online ngày 14-11-2007)

B - Đối ngoại:

1. Nhận diện kẻ thù, đề cao cảnh giác.

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, người cũng đã nhận diện được kẻ thù truyền kiếp của Tổ quốc ta là ai và với truyền thống ấy ngày nay vẫn còn đeo đẵn mãi, nhất là những hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung quốc đang xảy ra hàng ngày trên biển và mọi hành động quỷ quyệt xâm nhập vào nội địa nước ta. Theo ông Hà Đình Sơn trong bài “Trung quốc là kẻ đắc lợi với kết cục vụ án Cù Huy Hà Vũ” thì để cảnh báo về cái nguy cơ mất nước vào tay người đồng chí láng giềng khốn nạn bằng hành động cụ thể:

“Tiến sĩ Cù Huy hà Vũ là người năm 2007, có kiến nghị gửi nguyên chủ tịch nước Lê Đức Anh về một số phương sách bảo vệ Tổ quốc chống lại nguy cơ xâm lược của Trung quốc”. (Bauxite Việt Nam online ngày 3-8-2011)

“Ông Vũ cho rằng chủ nghĩa cộng sản Trung quốc sau khi Đông Âu sụp đổ đã biến tướng thành chủ nghĩa đế quốc cổ điển hay chủ nghĩa Tân Đại hán với đặc trưng là sự bành trướng lãnh thổ và Trung quốc đang trở thành mối đe dọa quân sự có tính toàn cầu, nên Việt Nam không thể“tự lực cánh sinh”mà phải dựa vào liên minh quân sự với một cường quốc hạt nhân khác”. (Cù Huy Hà Vũ- Wikipedia tiếng Việt online ngày 7-8-2011)
2. Liên kết đồng minh, bảo vệ Tổ quốc.
Không màu mè úp mỡ, Cù Huy Hà Vũ đã nói thẳng ra cái quốc gia có thể và có khả năng liên minh để cùng bảo vệ quyền lợi chung và nhờ đó mà Việt nam sẽ được bảo vệ không bị thôn tính bởi quân bành trướng đó là:

“Liên minh quân sự với Hoa kỳ là cấp thiết và quyết định trong việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đặc biệt trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và thu hồi toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bị nước ngoài xâm lược ở biển đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa”. (Dân Làm Báo online ngày 23-1-2011)

Đảng cộng sản từ lâu cũng đã thấy được rằng đồng minh với Mỹ là bảo vệ tổ quốc, còn đồng chí với Tàu thì chỉ có mất nước mà thôi, nhưng vì còn sợ mất lòng thiên triều nên chúng ra tay đàn áp những thành phần nào dám lên tiếng chống lại quan thầy của chúng. Tuy nhiên chính quyền CSVN cũng phải công nhận:

“Mới đây, trong chuyến viếng thăm tiểu bang Hawaii, đại sứ Việt Nam tại Hoa kỳ Lê Công Phụng nhận định “Quan hệ Việt - Mỹ đang ở giai đoạn tốt nhất trong vòng 15 năm qua”. Việt Nam và Mỹ đang thúc đẩy mạnh mẽ các bước cần thiết nhằm đưa mối quan hệ hai nước lên tầm cao mới, trở thành đối tác chiến lược của nhau trong thời gian tới”. (BBC online ngày 16-3-2011)

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, người cũng đã từng nhận bản án 13 năm tù của chính quyền cộng sản về tội phổ biến Dân chủ-Tự do cũng xác nhận rằng:

“Nếu bây giờ có cuộc thăm dò xã hội (kín, một cách độc lập) thì chắc tỷ lệ người dân Việt Nam ủng hộ việc thiết lập quan hệ đồng minh toàn diện, không chỉ về quân sự, với Mỹ sẽ thuộc về đa số áp đảo, và trong đa số đó cũng sẽ có rất nhiều đảng viên cộng sản”. (Đàn Chim Việt online ngày 29-7-2011)

C - Tư cách không tầm thường:

1- Chống đối cường quyền:

- Kiện thủ tướng Nguyễn tấn Dũng ký quyết định cho Trung quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên huỷ hoại môi trường sống của dân tộc và phá vỡ địa điểm chiến lược bảo vệ an ninh của Tổ quốc.

- Kiện tướng công an Vũ Hải Triều khoe đã đánh sập 300 trang mạng và blog vi phạm Điều 19 Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký ngày 24-9-1982.

- Gửi đơn lên Quốc hội tố cáo bí thư thành ủy Sài gòn Lê Thanh Hải đã cướp đất và đập phá nhà của bà Dương Thị Kính, thân nhân của 3 liệt sĩ ở phường Bình Thạnh.

Ngoài ra trong bức “thư cám ơn của tiến sĩ Hà Vũ” khi đang ở trong tù có đoạn viết:

“Kinh thưa đồng bào,
Bản chất việc làm của Hà Vũ trong những năm qua hoàn toàn không vụ lợi. Đòi lại Đàn Âm hồn - Đài liệt sĩ chống ngoại xâm đầu tiên của Việt Nam; Đòi giử Đồi Vọng cảnh, một khu đồi án ngữ ngay trước khu lăng mộ của các vua nhà Nguyễn khỏi trở thành khu khách sạn (Hotel Resort); bênh vực giáo dân xứ Cồn Dầu; chống lại việc bán tài nguyên ở Tây Nguyên; bênh vực nhân dân bị cấm khiếu kiện đông người; lên tiếng bảo vệ các nhà trí thức; lên tiếng xin hòa hợp hòa giải dân tộc trên thực tế, bằng công việc công nhận liệt sĩ cho các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa năm 1974…”(Đàn Chim Việt online ngày 31-7-2011)

2- Uy vũ bất năng khuất:

Vì chống lại bọn cường quyền nên tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ bị bọn cầm quyền hảm hại bằng cách bôi nhọ và bắt giam vì những tội vu vơ mà khi ra tòa không có chứng cớ để khép thành tội. Tuy thế trong hai lần sơ thẩm và phúc thẩm chúng vẫn kết án ông 7 năm tù giam và 3 năm quản chế bằng một phiên tòa mà theo tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng gọi là phiên tòa “kangaroo”, và theo ông thì từ điển Webster định nghĩa (Phiên tòa kangaroo là phiên tòa giả hiệu, bỏ qua hoặc áp dụng sai lạc các nguyên tắc của luật pháp và công lý”, như từ chối những quyền tố tụng cơ bản của bị cáo và luật sư trong đó có quyền triệu tập người làm chứng, quyền loại bỏ bằng chứng sai trái và quyền thẩm vấn, quyền từ chối quan tòa hay luật sư do thiên vị hay mâu thuẩn quyền lợi, quyền không buộc tội chính mình, quyền tự bào chữa, và quyền kháng án. Phiên tòa kangaroo nhảy vội đến kết luận với một bản án đã có từ trước khi phiên tòa diễn ra, tiếng Việt gọi nôm na là
“án bỏ túi”). (BBC online ngày 11-4-2011)

Trong phiên tòa sơ thẩm ấy, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã dõng dạc tuyên bố:

“Tổ quốc và nhân dân Việt Nam sẽ phá án cho tôi”.

Gần đây qua người vợ, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, tiến sĩ Hà Vũ gửi lời cảm ơn tất cả những người đã ủng hộ ông, đã theo dõi vụ án và nói chung tới đồng bào Việt Nam:

“Cù Huy Hà Vũ không có tội song cũng biết chấp nhận hy sinh. Xin đồng bào hãy coi như đứa con này lưu lạc xa nhà ít lâu. Những điều tiêu cực không thể sống lâu hơn những điều tích cực! Điều Hà Vũ này lo lắng nhất khi xa gia đình, xa bạn bè, anh, chị em ấy là lo cho đất nước rơi vào tay bọn đại giảo hoạt Bắc kinh. Đó mới là điều đau lòng nhất của Cù Huy Hà Vũ này!” (Đàn Chim Việt online ngày 31-7-2011)


D - Quần chúng ngưỡng mộ:

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu vì ưu ái một con người nghĩa khí, thành tâm nặng lòng với đất nước, hy sinh vì dân tộc nên ông đã làm hai câu đối tặng như sau:

“Hà Vũ bộc trực vô ưu, khả dĩ anh hùng khí tiết!
Dương Hà trung trinh hữu luật, dục thành thục nữ tâm cang!”
(Bauxite Việt Nam online ngày 14-3-2011)

Một vị giáo sư trẻ đã thành danh được mọi người mến mộ và cả nhà nước CSVN cũng hết lời ca tụng đó là giáo sư Ngô Bảo Châu, ông đã có một nhận định sâu sắc về tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ như sau:

“Tôi vốn không đặc biệt hâm mộ ông Cù Huy Hà Vũ. Những lý lẽ ông đưa ra tôi cũng không thấy có tính thuyết phục đặc biệt. ‘ Nhưng với những gì xảy ra gần đây, ông thể hiện mình như một con người không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Ruliti hay như Kinh Kha người gốc Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình.

“Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này”. (BBC online ngày 6-4-2011)

Và một vị giáo sư gìa khả kính Phạm Toàn cũng phải nói lên lời khâm phục và tình cảm chân thật của mình với một người “không tầm thường” sau khi ông ta nhận bản án 7 năm tù và 3 năm quản chế:

“Anh không mong chú ấy thành anh hùng. Anh chỉ chúc mừng Dương Hà đã có riêng cho mình một người chồng cao cả. Hôm nay, nói thật lòng với Dương Hà nhé: trong vụ xử án, điều mọi người như anh lo nhất là chú ấy lú lẫn sao đó lại nhận tội và xin khoan hồng. Chú ấy đã hành động cao cả. Thế là đủ. Đủ cho chú Vũ. Đủ cho tất cả. Nếu ngày mai anh chết, nếu anh không chờ được 7 năm nữa để bắt tay chú Vũ, em nhớ nhắn lại cho nó rằng anh rất yêu nó”. (Đàn Chim Việt online ngày 5-4-2011)

Một danh sách gồm mọi từng lớp nhân dân Việt Nam từ những nhà trí thức lão thành cách mạng đến những thanh niên trẻ hoặc người dân bình thường Kiến nghị trả tự do cho tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tính đến ngày 9-11-2010 là 2.765 người, ngoài ra sự can thiệp của quốc tế như ông Mark Toner, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ; Khối Dân biểu đảng Dân chủ Tự do của bà thủ tướng Angela Merkel của Đức; Liên Hiệp Âu châu…

Để nói lên sự ngưỡng mộ và tin tưởng một người đã có được cái khí phách anh hùng ngay cả trong lúc gian nguy, tù ngục; tôi xin mượn lời nhà thơ Bùi Minh Quốc gửi đến con người “không tầm thường” ấy với một tấm lòng:

“Thức thời để thấy rằng mỗi ngày giam giữ Cù Huy Hà Vũ chỉ càng tăng thêm ý chí của người trí thức ưu tú này tự rèn luyện hiệu quả hơn thành người chiến sĩ cách mạng từ trong ngục tối giương cao ngọn cờ vì Tổ quốc vì Tự do vẫy gọi lớp trí thức tinh hoa kế tiếp nối gót theo anh chiến đấu”. (Bauxite Việt Nam online ngày 1-8-2011)

Nguồn Đại Nghĩa (danlambao)
danlambaovn.blogspot.com

Thursday, August 4, 2011

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa Sử liệu Trung Quốc nói gì?

Trước hết Trung Quốc (TQ) yêu sách chủ quyền trên các quần đảo trên cơ sở quyền phát hiện và sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của TQ. 3. Sự quy thuộc các đảo này vào TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã thực hiện các hành động cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng ta sẽ xem xét lập luận của TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.

“Từ thời Hán Vũ đế trước công lịch hai thế kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài nhân dân TQ đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa (Paracels) và Nam Sa (Spratlys)” - Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ ngày 30.1.1980: “Chủ quyền không thể tranh cãi của TQ trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:

- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ kinh tổng yếu của Tăng Công Lượng (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng hải đồ” trong Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải Quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh năm 1730; Dương phòng tập yếu của Nghiêm Như Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư dân các đời kể lại.

Các sách kể trên hoàn toàn không phải là các chính sử được viết bởi các cơ quan chính thức của nhà nước. Phần lớn chúng là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa lý của người xưa liên quan không chỉ tới lãnh thổ TQ mà còn tới lãnh thổ của các nước khác.

Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng như tên sách, phần lớn nói về các miền mà người TQ gọi là “man di” nhiều hơn là TQ.

Sách Tống sử phần Ngoại quốc chép chuyện Chiêm Thành: “Năm Thiên Hy thứ hai (1016) vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói rằng người nước tôi trên đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền dạt ra Thạch Đường thì cả năm cũng không tới nơi được”. Cứ theo đó mà suy thì từ Chiêm Thành đến Quảng Châu có vùng được gọi là Thạch Đường nhưng không có nghĩa Thạch Đường thuộc Quảng Châu và vì sách này chép về các vùng nước người TQ coi là “man di” thì nó không thể được coi là thuộc TQ.

Sách Dư địa chí, quyển 4 phần Cương vực chép: “Phía ngoại vi của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách Lương, phía Nam đến Chiêm Thành, phía Tây đến Chân Lạp, Giao Chỉ, phía Đông đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường... Người địa phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống lẫn lộn các tên Cửu Nhũ Loa Châu, Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Trường Sa nhưng không có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản thân người TQ cũng không định rõ được vị trí của chúng. Điều đó, không nghi ngờ gì đã dẫn tới những cuộc tranh cãi bất tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống nhất các tên gọi trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá ngầm mà ngày nay có tên gọi là Trung Sa (Macclesfield Bank).

Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.

Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ thạch, thuyền lớn nằm ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.

Xuất phát từ những ghi chép đó, người TQ cho rằng Trướng Hải là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:

- Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính xác của Trướng Hải. Chúng cũng không xác định rõ các thạch sành nói trên chính là Tây Sa và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các lãnh thổ “man di”, nước ngoài, không phải lãnh thổ TQ.

- Nam Châu dị vật chí được soạn thời Tam Quốc (220-265) lại nói tới việc sử dụng la bàn trong hàng hải, thế nhưng dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.

- Cụm từ “nằm ngoài biên cương” cho thấy các đảo đá này không thuộc lãnh thổ TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các tài liệu chính thức khác của TQ mô tả và phân định lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam như: Quỳnh Châu phủ chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di đồ (1905)... hay các sách, bản đồ cổ khác của người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh thổ TQ nằm ở Nhai Châu, thuộc phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18013’ Nam. Điều đó còn được khẳng định bởi sách Địa lý Giáo khoa thư, Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là vĩ độ 18013’ Nam lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm điểm mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.

TS Nguyễn Hồng Thao

Nguồn Thanh Niên
http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20110804/Su-lieu-Trung-Quoc-noi-gi.aspx

Wednesday, August 3, 2011

Ba Khâu Đột Phá Của Thủ Tướng

Không thể nghi ngờ khả năng sắp đặt nhân sự để thâu tóm quyền lực của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng, nhìn hai trang báo đăng bài “nhậm chức” dày đặc chữ, mới thấy, ông làm Thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm được người viết diễn văn biết cách phân biệt sự khác nhau trong ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ với ngôn ngữ của một chính trị gia ở hàng nguyên thủ.

Định xếp trang báo lại coi như nó chẳng liên can gì tới mình, nhưng anh bạn café cùng bàn thở dài, “sợ đến cuối nhiệm kỳ, tô phở tăng giá lên mấy trăm”! Nhớ cái Tết 2006, mấy tháng trước khi ông nhậm chức, tô phở 15.000 đồng đã bị báo chí la làng. Bây giờ tô phở cùng loại đã là 50.000 đồng. Khi ông lên, ký thịt gà loại thả vườn cũng chỉ mới 28.000 đồng, ký heo nạc mới 38.000 đồng… Như tôi đã từng phân tích, do những chính sách về tài chính, ngân hàng của ông mà khủng khoảng kinh tế của Việt Nam xảy ra từ tháng 3-2008 trong khi, khủng hoảng kinh tế toàn cầu nếu có ảnh hưởng cũng chỉ có thể lan tới Việt Nam sớm nhất là tháng 12-2008.

Đầu năm 1998, sau cuộc phỏng vấn một nhà lãnh đạo, biết ông đang vui, tôi hỏi: “Anh vừa đi Yên Tử về có thấy những cục đá xung quanh chùa Đồng đầy những tên tuổi của Trần Văn Chắt, Nguyễn Thị Tèo…?”. Thấy ông chưa thực sự hiểu câu hỏi của mình, tôi tiếp: “Những kẻ, cho dù thuộc hàng chăn trâu cắt cỏ như Chắt, như Tèo, khi đã leo lên tới đỉnh thì cũng cố đánh dấu cái nơi mình đã đặt chân lên. Cái mà một bậc nguyên thủ quốc gia mưu cầu phải là lưu danh chứ không phải là tiền bạc”. Tất nhiên, để được lịch sử ghi nhận công lao thì khó hơn chia phần trăm và nhận bao thơ.

Trong cái chính thể do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng có nhiều quyền lực nhất. Thời ông Phạm Văn Đồng, danh sách nội các thường chỉ được bên ông Lê Đức Thọ chuyển sang không lâu trước khi ông đọc trước Quốc hội. Ông Đồng là người trọng chữ nghĩa, nên ông thường yêu cầu bên ông Thọ cho ông thời gian để sửa những câu trong tờ trình bị viết sai chính tả, ngữ pháp. Ông Đồng thừa nhận ông Võ Văn Kiệt là vị Thủ tướng làm được nhiều việc nhất.

Thời ông Kiệt, tuy không có “tam quyền phân lập” nhưng lại có “tam nhân phân quyền”. Ông Kiệt cũng chịu chế ước rất nhiều bởi những người đồng nhiệm như Lê Đức Anh, Đỗ Mười. Khi ông Kiệt đang đẩy nhanh tiến độ công trình đường điện 500 kv, tư lệnh công trình của ông, Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải, bị xử tù 3 năm. Năm 1995, ông Kiệt viết thư yêu cầu cải cách chính trị, liền sau đó, ông Nguyễn Trung, trợ lý của ông, người chấp bút “thư gửi Bộ Chính trị” đã bị áp lực tới mức phải ra đi, còn ông Hà Sỹ Phu, người tàng trữ một bản sao bức thư, thì bị bắt.

Trong tình hình ấy, Chính phủ ông Kiệt vẫn hoàn thành một khối lượng lớn công việc, xây dựng được những bộ luật làm nền tảng pháp lý cho nền kinh tế thị trường vận hành. Và, đặc biệt, dù bị cản trở rất nhiều, vẫn đưa Việt Nam gia nhập ASEAN, thiết lập quan hệ với EU và với những quốc gia một thời bị coi là kẻ thù như Đại Hàn, như Mỹ… Người kế vị ông, ông Phan Văn Khải nói: “Về bản lĩnh chính trị, tôi không thể nào so sánh với đồng chí Võ Văn Kiệt”.

Khi ông Phan Văn Khải làm Thủ tướng, người ta sốt ruột bởi nhịp độ cải cách chậm đi so với người tiền nhiệm. Nhưng, như ông Kiệt nhận xét: “Thủ tướng Phan Văn Khải là một nhà kinh tế hàng đầu của đất nước”. Ông Khải không có những tuyên bố làm nức lòng dân bởi ông không phải là một nhà chính trị. Nhưng nhờ là một nhà kỹ trị, ngay từ khi làm phó cho ông Kiệt, ông Khải đã tham gia hình thành chính sách như một kiến trúc sư.

Gần như toàn bộ các thiết chế pháp lý mà nền kinh tế đang vận hành đều được hình thành dưới thời ông Kiệt và được tiếp tục hoàn thiện hơn dưới thời ông Khải. Đặc biệt, chính phủ ông Khải đã có công rất lớn khi ban hành Luật Doanh nghiệp đồng thời bãi bỏ hàng trăm loại giấy phép mẹ, giấy phép con. Chính quyền của Thủ tướng Phan Văn Khải cũng hoàn thành những vòng đàm phán gay go nhất trong tiến trình Việt Nam gia nhập WTO, để lại cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một nền kinh tế đang tăng trưởng trên 8%, lạm phát chỉ hơn 6% và một Việt Nam có vị thế khá cao trên trường quốc tế.

Thật khó để gạch ra vài đầu dòng để nói về đóng góp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong nhiệm kỳ đầu nhất là về mặt chính sách. Nhưng, khác với những người tiền nhiệm của mình, Nguyễn Tấn Dũng đang có cả một nhiệm kỳ trước mắt. Đây có thể là cơ hội cuối cùng và cũng có thể là cơ hội bắt đầu để ông tiếp tục nắm quyền với vai trò Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nước.

Chính trị là “nghệ thuật của những điều có thể”. Có rất nhiều điều chúng ta muốn làm cho đất nước nhưng chúng ta không có quyền. Có rất nhiều điều có thể ông Dũng cũng muốn làm, nhưng thế và lực cũng không cho phép. Với năng lực của cá nhân Thủ tướng và đội ngũ cố vấn hiện thời, Chính phủ chưa nên ban hành chính sách gì mới. Việc đầu tiên, trong phạm vi quyền Hiến định của mình, Chính phủ nên sắp xếp lại các cơ quan chính phủ theo hướng tách bạch chức năng hành pháp chính trị và hành chính công vụ.

Năm 2006, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong một trạng thái tinh thần lãng mạn, đã lập ra một nhóm nghiên cứu giúp ông Nguyễn Thiện Nhân cải cách giáo dục. Khi đó, tôi đề nghị, ông Nhân thay vì đưa ra chính sách, trước hết phải sắp xếp lại bộ máy của Bộ Giáo dục theo hướng: lập các vụ, chỉ tham mưu chính sách cho bộ trưởng; lập các cục, chỉ thi hành hành chính công vụ. Không thể đòi hỏi các vụ của ông giảm bớt các thủ tục và thôi can thiệp vào công việc của các nhà trường khi chính họ là người hưởng lợi từ việc duy trì những thủ tục không cần thiết ấy. Nhưng, thay vì thao tác như một bộ trưởng ông Nhân đã làm phong trào “hai không” như một cán bộ đoàn.Khi đã tách bạch hai chức năng này thì chỉ rất ít bộ còn các cục vì chức năng hành chính công vụ sẽ được giao cho địa phương. Bộ trưởng chỉ làm vai trò chủ yếu là hành pháp chính trị. Mỗi bộ có thể sẽ có một ông thứ trưởng chuyên nghiệp, một nhà kỹ trị đúng nghĩa, trông coi phần hành chánh công vụ thuộc ngành mình và chỉ ra tay khi có một cấp nào đó hiểu sai chính sách và chỉ hướng dẫn lại để các địa phương hiểu đúng về thủ tục và chính sách.

Tách bạch như vậy, chính phủ chỉ còn quan tâm tới việc hình thành những hành lang pháp lý sao cho người dân dễ thở, kinh tế phát triển: sáp nhập Thủ đô thì không nghĩ đến các dự án đất đai của đàn em; bãi bỏ thi cử thì không sợ mất khoản phần trăm từ việc in ấn đề thi… Những người chạy chức bộ trưởng sẽ không dám bỏ tiền triệu ra vì mai mốt không thể bán giấy phép mà thu hồi vốn. Và, Hà Nội đất chật sẽ không còn tấp nập xe cộ vào những khi lễ, tết vì chẳng ai còn có nhu cầu biếu quà.

Việc thứ hai, nhân sửa đổi Hiến pháp, nên áp dụng chế độ đa sở hữu đối với đất đai. Đây là một vấn đề mà khi soạn thảo Hiến pháp 1992, Chính phủ Võ Văn Kiệt đã muốn làm nhưng điều kiện chính trị chưa chín muồi như bây giờ. Chế độ đất đai thuộc sở hữu toàn dân chỉ mới được đưa vào Hiến pháp 1980 trong một hoàn cảnh mà ngay chính những người soạn thảo cũng không hiểu hết hệ lụy của nó. Khi trình dự thảo hiến pháp 1980, Chủ tịch Ủy Ban sửa đổi Hiến pháp Trường Chinh đề nghị áp dụng 5 hình thức sở hữu đối với đất đai. Nhưng, khi họp Trung ương, Tổng Bí thư Lê Duẩn có một bài phát biểu riêng về việc lấy tư tưởng “làm chủ tập thể” làm trung tâm. Sau khi phân tích “đạo lý của việc áp dụng phương thức sở hữu toàn dân đối với đất đai”, ông Lê Duẩn cho rằng tinh thần của Hiến pháp 1980 phải dựa trên ba yếu tố: làm chủ tập thể, chuyên chính vô sản và sở hữu toàn dân. Cả chuyên chính vô sản và làm chủ tập thể đã gãy và cái kiềng ba chân ấy chỉ còn cái chân sở hữu toàn dân cà nhắc.

Không chỉ lỗi thời về mặt lý luận, việc không tách bạch các hình thức sở hữu đất công, đất tư đã dẫn đến sự lúng túng trong việc ban hành các chính sách liên quan đến thuế và thu tiền sử dụng đất. Việc các chính quyền địa phương bị thao túng bởi các doanh nghiệp, tiếp tay cho họ cướp đất, đang là mầm mống của những vụ gây bất ổn về chính trị. Có lẽ chính quyền cũng nên biết xấu hổ khi người dân ở các vùng đất chống Mỹ như Bến Tre, Long An… giờ đây khi bị mất đất thay vì cậy đến chính quyền mà họ đã đổ máu để lập nên đã phải khăn gói đến cầu xin trợ giúp trước các cơ quan ngoại giao của Mỹ.

Có một việc mà cả Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải đều chưa làm được là cải cách khu vực kinh tế nhà nước, tiến tới dẹp bỏ kinh tế quốc doanh. Nhu cầu để quốc doanh “chết” xuất hiện từ cuối năm 1989 khi Chính phủ Đỗ Mười chống lạm phát thành công bằng cách áp dụng lãi suất tín dụng theo nguyên tắc kinh tế thị trường và buộc các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh. Chính sách này đã làm cho nền kinh tế mạnh lên nhưng đồng thời đã đặt các doanh nghiệp quốc doanh trước nguy cơ phá sản. Ông Mười bị Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phê phán đã định quay lại chính sách bao cấp nhưng, trước sự can gián của những nhà cố vấn dũng cảm như Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên, Lê Đức Thúy, Nguyễn Văn Nam… ông đã chỉ lùi một bước: ném cái phao tín dụng để cứu quốc doanh. Kinh tế quốc doanh vì thế đã tiếp tục được bú bầu sữa từ độc quyền khai thác tài nguyên, độc quyền các thương quyền, đến được ưu đãi hơn về tín dụng.

Việt Nam, xét về bản chất, không còn là một quốc gia cộng sản mà chỉ là quốc gia độc đảng. Trong thâm sâu, những người đồng nhiệm của ông Dũng không còn coi ý thức hệ là kim chỉ nam cho dù độc đảng vẫn là lẽ sinh tồn của họ. Nếu ông Dũng đòi xét lại định hướng xã hội chủ nghĩa, ông cũng sẽ bị tiêu diệt. Các đối thủ của ông sẽ chống ông không vì niềm tin mà vì đấy là công cụ tấn công mà không ai dám cãi. Nhưng, với tư cách Thủ tướng, ông Dũng có thể thuyết phục các đồng chí của mình: Giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng thay vì lấy quốc doanh là chủ đạo thì phải chọn hiệu quả của nền kinh tế làm chủ đạo.

Năm 2005, năm trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng cầm quyền, khu vực quốc doanh tuy nắm 54,9% tổng số vốn sản xuất kinh doanh, 51% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn nhưng chỉ tạo ra 38,8% doanh thu; Trong khi khu vực tư nhân chỉ chiếm 25% vốn sản xuất kinh doanh, 20,6% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chánh dài hạn nhưng đã tạo ra mức doanh thu chiếm 39,5%. Thế nhưng, năm 2006, thành phần kinh doanh kém hiệu quả này vẫn được ưu tiên, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, 20% vốn đầu tư xã hội, gần 50% vốn đầu tư của nhà nước và 60% tín dụng ngân hàng trong nước và 70% vốn vay từ nước ngoài. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, chưa bao giờ khu vực kinh tế quốc doanh được coi là một khu vực kinh doanh hiệu quả. Không thể có cái gọi là chủ nghĩa xã hội như đức tin của một số người nếu những anh nắm nhiều nhất tài nguyên và vốn liếng quốc gia lại làm ra tiền ít nhất.

Tất nhiên, nếu ông Dũng muốn, việc thực hiện những điều tối thiểu này cũng không phải dễ dàng. Một nội các mà một số thành viên của nó đã phải chi phí rất nhiều để ngồi vào không thể sẵn sàng chia tay với quyền cấp từng tờ giấy phép. Nhưng, cũng như “Trần Văn Chắt, Nguyễn Thị Tèo”, đã lên tới đó thì đừng nghĩ tới mục tiêu kiếm chác. Thủ tướng cũng cần có sự ủng hộ của các thành viên trong gia đình. Đối với một dòng họ có một người ngồi trên ghế Thủ tướng tới hai nhiệm kỳ thì điều đáng tự hào là những gì người đó đã làm chứ không phải là lượng đất đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đình nắm được.

Viết đến đây thì nhận được tin tòa y án đối với Cù Huy Hà Vũ. Như vậy, không chỉ những người giúp việc viết diễn văn, các cố vấn chính trị của Thủ tướng cũng vẫn mang những tư duy cũ. Tiểu khí vẫn bị đánh thức. Thay vì, sau những nỗ lực sinh tử để thâu tóm quyền hành, bậc anh hùng phải bắt đầu nhiệm kỳ bằng cách mở lòng đại xá. Hy vọng, sau khi Quốc hội phê chuẩn nội các, Thủ tướng sẽ có những người giúp việc hiểu được vai trò lịch sử của ông hơn.

Huy Đức
Nguồn Blog Quê Choa
http://quechoa.info